Thêm ribociclib vào liệu pháp hormone giúp cải thiện kết quả điều trị ung thư vú sớm.

Một nghiên cứu mới đây đã phát hiện ra rằng việc bổ sung ribociclib vào phương pháp điều trị nội tiết tố có thể cải thiện kết quả điều trị cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu. Những bệnh nhân này thường âm tính với thụ thể nội tiết tố (HR)/HER2 âm tính. Theo các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Ung thư Toàn diện Jonsson của UCLA, việc kết hợp ribociclib vào phương pháp điều trị giúp bệnh nhân sống sót lâu hơn và giảm nguy cơ tái phát ung thư. Kết quả nghiên cứu này được chia sẻ trong Hội nghị thường niên của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ. Ung thư vú HR dương tính/HER2 âm tính là loại phụ phổ biến nhất của bệnh và chiếm gần 70% các trường hợp ung thư vú ở Hoa Kỳ.
Một nghiên cứu cho thấy rằng khi ribociclib, một loại thuốc điều trị nhắm mục tiêu, được thêm vào phương pháp điều trị nội tiết tố, bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu âm tính với thụ thể nội tiết tố (HR)/HER2 âm tính có lợi thế sống sót đáng kể mà không bị bệnh xâm lấn. Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Ung thư Toàn diện Jonsson của UCLA đã phát hiện ra rằng những người được điều trị kết hợp có cuộc sống không bị bệnh xâm lấn lâu hơn những người chỉ được điều trị bằng hormone, bất kể ung thư có lan đến các hạch bạch huyết hay không. Việc bao gồm điều trị nhắm mục tiêu làm giảm 25% nguy cơ tái phát.
Các kết quả đã được chia sẻ ngày hôm nay trong Hội nghị thường niên của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ bởi Tiến sĩ. Dennis Slamon, chủ tịch khoa huyết học-ung thư và giám đốc nghiên cứu lâm sàng và tịnh tiến tại Trung tâm Ung thư Toàn diện Jonsson của UCLA. “Kết quả từ các thử nghiệm lâm sàng có ý nghĩa ngay lập tức đối với bệnh nhân,” Slamon nói. “Những phát hiện cho thấy sự kết hợp này là lựa chọn điều trị cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn 2 hoặc giai đoạn 3 HR dương tính/HER2 âm tính.”
Ung thư vú HR dương tính/HER2 âm tính là loại phụ phổ biến nhất của bệnh và chiếm gần 70% các trường hợp ung thư vú ở Hoa Kỳ. Trước đây, Slamon và các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư Jonsson đã chỉ ra rằng việc bổ sung ribociclib, một chất ức chế kinase phụ thuộc cyclin, vào liệu pháp hormone tiêu chuẩn đã cải thiện khả năng sống sót chung ở cả phụ nữ tiền mãn kinh và mãn kinh mắc bệnh ung thư vú có HR dương tính/HER2 âm tính.
Slamon cũng dẫn đầu chương trình khám phá phát hiện ra rằng các chất ức chế kinase phụ thuộc cyclin có hiệu quả trong điều trị ung thư vú dương tính với thụ thể hormone. Những loại thuốc này hoạt động bằng cách ngăn chặn hoạt động của các enzym kinase 4/6 phụ thuộc vào cyclin, vốn thúc đẩy quá trình phân chia tế bào và phát triển ung thư. Công việc này cuối cùng đã giúp FDA chấp thuận cho ribociclib và các loại thuốc liên quan khác để điều trị ung thư vú di căn. Hiện tại có ba chất ức chế CDK4/6 đã được FDA chấp thuận để điều trị kết hợp với liệu pháp nội tiết tố tiêu chuẩn trong môi trường di căn.
Dựa trên nghiên cứu trước đây, nhóm đã đánh giá liệu sự kết hợp của các phương pháp điều trị có thể cải thiện kết quả điều trị ung thư vú giai đoạn đầu hay không. Thử nghiệm lâm sàng, được gọi là NATALEE, có sự tham gia của 5101 bệnh nhân mắc ung thư vú giai đoạn 2 hoặc 3 giai đoạn 3 hoặc giai đoạn 3 dương tính với HR dương tính/âm tính với HER2. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm: 2549 được chọn ngẫu nhiên để điều trị kết hợp và 2552 chỉ điều trị bằng hormone. Tỷ lệ sống sót không bệnh xâm lấn là tiêu chí chính của nghiên cứu.
Thời gian trung bình của quá trình theo dõi nghiên cứu là 34 tháng, với ribociclib 3 năm và 2 năm hoàn thành ở 20% và 57% bệnh nhân, tương ứng. Tỷ lệ sống sót không bệnh xâm lấn được đánh giá sau 426 sự kiện. Tại thời điểm phân tích này, 189 người trong nhóm dùng ribociclib đã trải qua sự kiện sống sót không mắc bệnh xâm lấn, so với 237 người trong nhóm chỉ dùng liệu pháp hormone. Dữ liệu cho thấy sự gia tăng đáng kể về mặt thống kê về nguy cơ mắc bệnh xâm lấn có lợi cho nhóm kết hợp.
Tỷ lệ sống sót sau ba năm không mắc bệnh xâm lấn là 90,4%, so với 87,1% ở phụ nữ chỉ điều trị bằng liệu pháp hormone. Ribociclib ở mức 400 mg có hồ sơ an toàn thuận lợi và không có tín hiệu mới.
“Nhìn chung, liệu pháp kết hợp cho thấy kết quả tốt hơn, giảm đáng kể nguy cơ ung thư quay trở lại,” Slamon nói. “Những kết quả này sẽ thay đổi cách chúng ta đánh giá và điều trị bệnh nhân.” ()