“Những yếu tố rủi ro khác cần được xem xét để phát hiện ung thư vú: Nghiên cứu”

Bài viết này tập trung vào tầm quan trọng của các yếu tố rủi ro khác trong việc phát hiện ung thư vú. Một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng là mô vú dày đặc, khiến việc phát hiện ung thư trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên, nhiều tiểu bang đã thông qua luật yêu cầu chụp quang tuyến vú để thông báo cho phụ nữ có bộ ngực dày để họ có thể quyết định có nên siêu âm kiểm tra bổ sung để cải thiện khả năng phát hiện ung thư hay không. Tuy nhiên, sàng lọc bằng siêu âm bổ sung cũng có nhược điểm, đòi hỏi hình ảnh bổ sung và có thể dẫn đến sinh thiết vú không cần thiết ở những phụ nữ không bị ung thư vú. Do đó, điều quan trọng là chỉ sử dụng siêu âm bổ sung ở những phụ nữ có nguy cơ thất bại trong việc kiểm tra chụp quang tuyến vú cao. Các bác sĩ lâm sàng cũng có thể xem xét các yếu tố nguy cơ ung thư vú khác để xác định những phụ nữ có thể phù hợp để kiểm tra siêu âm bổ sung.
Các yếu tố nguy cơ ung thư vú bao gồm mô vú dày đặc với tỷ lệ mô xơ cao hơn mỡ. Mô vú dày đặc cũng khiến việc phát hiện ung thư trên nhũ ảnh trở nên khó khăn hơn. Nhiều tiểu bang đã thông qua luật yêu cầu chụp quang tuyến vú để thông báo cho phụ nữ có bộ ngực dày để họ có thể quyết định có nên siêu âm kiểm tra bổ sung để cải thiện khả năng phát hiện ung thư hay không. Kết quả của những sàng lọc bổ sung này đã được đánh giá để xác định ưu điểm và nhược điểm của chúng đối với bệnh nhân trong một nghiên cứu gần đây vừa được Wiley công bố trực tuyến trên tạp chí CANCER, một tạp chí bình duyệt của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ.
Mặc dù sàng lọc siêu âm bổ sung có thể phát hiện ung thư vú do chụp nhũ ảnh bỏ qua, nhưng nó đòi hỏi hình ảnh bổ sung và có thể dẫn đến sinh thiết vú không cần thiết ở những phụ nữ không bị ung thư vú. Do đó, điều quan trọng là chỉ sử dụng siêu âm bổ sung ở những phụ nữ có nguy cơ thất bại trong việc kiểm tra chụp quang tuyến vú cao—nói cách khác, những phụ nữ bị ung thư vú sau khi chụp quang tuyến vú không có dấu hiệu ác tính. Brian Sprague, Tiến sĩ, thuộc Trung tâm Ung thư Đại học Vermont, và các đồng nghiệp đã đánh giá 38.166 lần siêu âm bổ sung và 825.360 lần chụp quang tuyến vú sàng lọc mà không cần siêu âm bổ sung trong giai đoạn 2014-2020 tại 32 cơ sở chẩn đoán hình ảnh của Hoa Kỳ trong ba cơ quan đăng ký khu vực của Hiệp hội Giám sát Ung thư Vú.
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng 95,3% số lần siêu âm bổ sung được thực hiện trên những phụ nữ có bộ ngực dày. Để so sánh, 41,8% số lần chụp quang tuyến vú mà không cần sàng lọc bổ sung được thực hiện ở những phụ nữ có bộ ngực dày. Trong số những phụ nữ có bộ ngực dày đặc, nguy cơ cao bị ung thư vú xâm lấn khoảng cách hiện diện ở 23,7% phụ nữ được siêu âm, so với 18,5% phụ nữ được chụp quang tuyến vú mà không cần thêm hình ảnh.
Các phát hiện cho thấy sàng lọc bằng siêu âm được nhắm mục tiêu cao đến những phụ nữ có bộ ngực dày, nhưng chỉ một tỷ lệ nhỏ những phụ nữ này có nguy cơ thất bại trong việc sàng lọc bằng chụp nhũ ảnh. Một số lượng lớn phụ nữ chỉ chụp quang tuyến vú có nguy cơ cao thất bại trong việc sàng lọc bằng chụp quang tuyến vú. Tiến sĩ Sprague cho biết: “Trong số những phụ nữ có bộ ngực dày, siêu âm ít nhắm mục tiêu đến những phụ nữ có nguy cơ cao thất bại trong việc kiểm tra bằng chụp nhũ ảnh. Ngược lại, những phụ nữ có bộ ngực dày được kiểm tra bằng siêu âm có nguy cơ tương tự như những phụ nữ chỉ được kiểm tra bằng chụp quang tuyến vú”. . “Nói cách khác, nhiều phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú thấp mặc dù có bộ ngực dày được kiểm tra bằng siêu âm, trong khi nhiều phụ nữ khác có nguy cơ mắc ung thư vú cao chỉ được chụp quang tuyến vú mà không cần kiểm tra thêm.”
Các bác sĩ lâm sàng có thể xem xét các yếu tố nguy cơ ung thư vú khác ngoài mật độ vú để xác định những phụ nữ có thể phù hợp để kiểm tra siêu âm bổ sung. Một máy tính rủi ro có sẵn công khai từ Hiệp hội giám sát ung thư vú cũng có tính đến tuổi tác, tiền sử gia đình và các yếu tố khác.